Anonymous user
恪別𡧲版𢯢𢷮𧵑「戰爭世界次𠄩」
no edit summary
(→𩈘陣𪰂東) |
空固𥿂略𢯢𢷮 |
||
𣳔68: | 𣳔68: | ||
雖被𡗉失敗𠓨𡳳𢆥1941、仍德再晉工𠓨𢆥1942、進𦤾殺𧿆𡶀[[Kavkaz]]、仍拱被聯搊反工𠓨務東、爫軍德撙失曩𪣮、反映𥪝役[[集團軍數 6德]]被標滅在[[Stalingrad]]。𥪝務夏𢆥1943、在陣[[𠺯空Kursk]]、聯搊㐌標滅𡗉單位德空勢𠊝勢得、一羅各單位鐵夾。自妬朱𦤾欺歇戰爭、軍聯搊𣎏體行軍晉工在𩈘陣沔東啐𢆥。𦤾𡳳𢆥1944、聯搊㐌爭吏得候歇數領土被德佔㨂吧𣈜強待𤑭力量𣈜強嗤要𧵑德衛𪰂西、朱𦤾欺𡳳拱穿過東歐、吧𣦍哿德、欺戰爭插結束。𡗉同盟𧵑德被𨄴覩欺力量聯搊進𠓨𠱋麻尼、匈牙利吧區域Balkan。𡢐拱聯搊㐌佔得[[柏林]]𠓨𢆥1945。 | 雖被𡗉失敗𠓨𡳳𢆥1941、仍德再晉工𠓨𢆥1942、進𦤾殺𧿆𡶀[[Kavkaz]]、仍拱被聯搊反工𠓨務東、爫軍德撙失曩𪣮、反映𥪝役[[集團軍數 6德]]被標滅在[[Stalingrad]]。𥪝務夏𢆥1943、在陣[[𠺯空Kursk]]、聯搊㐌標滅𡗉單位德空勢𠊝勢得、一羅各單位鐵夾。自妬朱𦤾欺歇戰爭、軍聯搊𣎏體行軍晉工在𩈘陣沔東啐𢆥。𦤾𡳳𢆥1944、聯搊㐌爭吏得候歇數領土被德佔㨂吧𣈜強待𤑭力量𣈜強嗤要𧵑德衛𪰂西、朱𦤾欺𡳳拱穿過東歐、吧𣦍哿德、欺戰爭插結束。𡗉同盟𧵑德被𨄴覩欺力量聯搊進𠓨𠱋麻尼、匈牙利吧區域Balkan。𡢐拱聯搊㐌佔得[[柏林]]𠓨𢆥1945。 | ||
壙5,3 兆𠔦德吧諸候㐌子陣在𩈘陣聯搊、拱唄壙6,5 兆恪被𪯗吔或被扒爫揪兵、佔 75% 總商亡𧵑批發蜇𥪝全部世戰次𠄩。衛𪰂聯搊、軍隊搊曰撙失 8,67 兆兵𠔦𥪝啐 4𢆥戰爭 (包𪞍壙 6,537 兆子陣𥪝戰鬥吧 2,1 兆揪兵𣩂𨕭總數 5,2 兆被軍德扒爫揪兵)。壙 400.000 軍𧿆油吧游擊拱實𦁸𪰂𡢐用暫佔𧵑德。撙失衛民償𧵑聯搊羅慄𡘯、摇動𥪝壙 12-16 兆𠊛。 | |||
==== 戰役意 ==== | ==== 戰役意 ==== | ||
𣳔114: | 𣳔114: | ||
Quân Đồng Minh có kế hoạch đổ bộ vào Nhật、nhưng sự phát triển [[vũ khí hạt nhân|bom nguyên tử]] làm thay đổi tình hình。Ngày [[6 tháng 8|6]] và [[9 tháng 8]]、hai quả bom đã được Hoa Kỳ thả xuống [[Hiroshima]] và [[Nagasaki]]。Quân đội [[{{SUN3}}]] sau khi kết thúc chiến tranh ở Đức đã tuyên bố chiến tranh với Nhật、và sau khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima đã tấn công [[Đạo quân Quan Đông]] của Nhật đang đóng ở [[Mãn Châu]] ngày [[9 tháng 8]]。Thấy rõ không thể cứu vãn được、ngày [[15 tháng 8]]、Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng Minh。Ngày [[2 tháng 9]] năm [[1945]]、Nhật Bản ký văn kiện đầu hàng không điều kiện、sáu năm và một ngày sau khi cuộc thế chiến bắt đầu (kể từ ngày Đức xâm lược Ba Lan)。Tuy nhiên hậu quả của hai vụ ném bom này thì cho đến gần đây、những người dân Nhật vẫn phải gánh chịu。 | Quân Đồng Minh có kế hoạch đổ bộ vào Nhật、nhưng sự phát triển [[vũ khí hạt nhân|bom nguyên tử]] làm thay đổi tình hình。Ngày [[6 tháng 8|6]] và [[9 tháng 8]]、hai quả bom đã được Hoa Kỳ thả xuống [[Hiroshima]] và [[Nagasaki]]。Quân đội [[{{SUN3}}]] sau khi kết thúc chiến tranh ở Đức đã tuyên bố chiến tranh với Nhật、và sau khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima đã tấn công [[Đạo quân Quan Đông]] của Nhật đang đóng ở [[Mãn Châu]] ngày [[9 tháng 8]]。Thấy rõ không thể cứu vãn được、ngày [[15 tháng 8]]、Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng Minh。Ngày [[2 tháng 9]] năm [[1945]]、Nhật Bản ký văn kiện đầu hàng không điều kiện、sáu năm và một ngày sau khi cuộc thế chiến bắt đầu (kể từ ngày Đức xâm lược Ba Lan)。Tuy nhiên hậu quả của hai vụ ném bom này thì cho đến gần đây、những người dân Nhật vẫn phải gánh chịu。 | ||
== Ảnh hưởng đến dân thường == | |||
:''Xem thêm [[Công ước Genève về đối xử nhân đạo với tù binh, hàng binh chiến tranh]]'' | |||
Chiến tranh thế giới thứ hai đem đến cho dân thường nhiều nỗi đau thương chưa từng thấy. Trong hơn 50 triệu người chết vì chiến tranh trên một nửa là thường dân, bị giết bằng nhiều cách khác nhau. Nhiều người bị chết bởi bom đạn và nhiều hơn nữa vì việc thiếu lương thực và không có dịch vụ cần thiết cộng thêm việc phá hoại nhà cửa và các phương tiện cho dân trong chiến tranh. Nhiều hơn nữa bị chết vì các chiến dịch có mục tiêu là dân thường để giảm sự ủng hộ của quần chúng đối với chính quyền và tàn phá khả năng sản xuất vào việc chiến tranh. Thêm vào đó, nhiều người đã bị hành hình vì lý do [[quốc tịch]], [[dân tộc]] và [[tín ngưỡng]]. | |||
=== Trại tập trung Đức quốc xã (Holocaust) === | |||
{{chính|Holocaust}} | |||
Chiến dịch tàn sát tù binh chiến tranh và thường dân điển hình nhất và có tổ chức nhất là các chương trình được vạch ra và thực hiện bởi [[Đức Quốc Xã|Đức quốc xã]]. Ban đầu chỉ nhắm mục tiêu vào [[người Do Thái]] tại nước này, cộng thêm một số nhóm người ít người không ưa thích. Chế độ [[Đức Quốc Xã|Đức quốc xã]] bắt đầu thành lập trại để cách ly các nhóm người này, sau đó dùng lao động cưỡng bách và cuối cùng tiêu diệt hàng loạt. Các nhóm người Do Thái, người [[đồng tính luyến ái]] và người có khuyết tật là các mục tiêu đầu tiên, nhưng những người đối lập chính trị như những người theo [[chủ nghĩa xã hội]] và các nhân vật tôn giáo (kể cả tín đồ [[Kitô giáo|Cơ đốc giáo]]) lên tiếng cũng bị bắt giữ. | |||
Một khi chiến tranh bùng nổ và phần đất Đức xâm chiếm tăng lên, các lãnh thổ mới chiếm này cũng bị tính trong nỗ lực đó. Riêng [[Ba Lan]] đã bị ảnh hưởng rất nhiều, với gần toàn bộ dân số Do Thái tại nước này và một số đông người Cơ đốc giáo đã bị tiêu diệt. Hàng chục triệu [[Người Nga]] và các [[người Slav]] bị chinh phục khác cũng bị giam cầm tại hơn 100 trại tập trung của Đức trên khắp các vùnh lãnh thổ châu Âu bị nước Đức Quốc xã chiếm đóng. Các trại lớn nhất là Dachau, Buchenwald, Ravensbrück, Ausschwitz, Majdanek, Bergen Belsen, Gusen... Số người được giải phóng khỏi các trại này sau chiến tranh chỉ còn vài trăm nghìn. | |||
{{commonscat|Nazi concentration camps by name|Tội ác chiến tranh của chế độ Quốc xã Đức}} | |||
Tổng số người đã bị giết trong các trại tập trung, trong các chương trình tiêu diệt và trong khi bị chính quyền Đức ngược đãi có lẽ không bao giờ có thể biết chính xác được. Có một số ước đoán cao hơn 10 triệu người, trong đó 5 tới 6 triệu là người Do Thái bị giết trong các chương trình tiêu diệt có mục đích. | |||
=== Xô Viết === | |||
Về phía mình, tức giận vì những tàn phá mà quân Đức gây ra cho đất nước mình, một bộ phận binh sĩ Hồng quân cũng có những hành động trả thù nhằm vào tù binh hoặc dân thường Đức. Theo một số tài liệu phương Tây, kể từ khi tiến vào nước [[Đức]] ([[1944]]-[[1945]]), ngoài việc cướp nhà dân và cửa hiệu<ref>Hubertus Knabe, ''Tag der Befreiung? Das Kriegsende in Ostdeutschland'' (Ngày giải phóng? Kết thúc chiến tranh ở Đông Đức); [http://www.amazon.de/Tag-Befreiung-Das-Kriegsende-Ostdeutschland/dp/3549072457 mua sách này trên Amazon]</ref> Hồng quân Liên Xô đã [[hiếp dâm|hãm hiếp]] hàng chục ngàn phụ nữ và trẻ em người Đức, từ 8 đến 80 tuổi<ref>Antony James Beevor, ''Berlin: The Downfall 1945'' (Ngày tàn của Berlin năm 1945), trang 28; [http://www.amazon.co.uk/Berlin-Downfall-1945-Antony-Beevor/dp/0140286969 mua sách này trên Amazon]</ref><ref>[http://www.guardian.co.uk/g2/story/0,3604,707835,00.html Báo ''The Guardian'' trích sách của Antony James Beevor], ngày 1 tháng 5 năm 2002</ref><ref>Alfred-Maurice de Zayas, ''Die Anglo-Amerikaner und die Vertreibung der Deutschen'', Tr. 87, Ullstein, 1988. [http://www.amazon.de/Die-Anglo-Amerikaner-die-Vertreibung-Deutschen/dp/3548332064 Để kiểm chứng, có thể mua sách này trên Amazon]</ref><ref>Hanna Schissler ''The Miracle Years: A Cultural History of West Germany, 1949–1968'' [http://books.google.com/books?id=00fCzJKt1QMC&pg=PA28&lpg=PA28&dq=soviet+estimates+rape+tens+of+thousands&source=web&ots=xzyKzJm1sj&sig=cy2AfPmp7ZvT7K9YSWPRkXoyp6E]</ref>. Theo Franz Wilhelm Seidler, riêng ở [[Berlin]] là 20 ngàn tới 100 ngàn, các tỉnh còn lại từ 100 ngàn tới nửa triệu<ref>Franz Wilhelm Seidler và Alfred-Maurice de Zayas, ''Kriegsverbrechen in Europa und im Nahen Osten im 20. Jahrhundert'' (Tội ác chiến tranh ở Châu Âu, Đông Đức trong thế kỷ 20); [http://www.preistrend.de/Buch_Preisvergleich_Kriegsverbrechen_in_Europa_und_im_Nahen_Osten_im_20_Jahrhundert__o7249710201767402.html mua sách này trên PreisTrend] hoặc [http://www.amazon.de/Kriegsverbrechen-Europa-Nahen-Osten-Jahrhundert/dp/3813207021/ref=pd_bxgy_b_img_b trên Amazon]</ref><ref>Theodor Schieder, ''Dokumentation der Vertreibung der Deutschen aus Ost-Mitteleuropa'' (Tư liệu về việc người Đức bị bắt phải di cư khỏi miền đông Trung Âu), nhà xuất bản Deutscher Taschenbuch Verlag (DTV), [[München]], Đức, năm 2004; [http://www.dtv.de/dtv.cfm?wohin=dtvnr59072 mua sách trên website của DTV]</ref>. Rất nhiều nạn nhân trong số này bị từ 10 đến 12 lính hãm hiếp tập thể, và đa số bị hãm hiếp nhiều lần<ref>William Hitchcock, ''The Struggle for Europe: The Turbulent History of a Divided Continent, 1945-2002'' (Cuộc chiến giành Châu Âu: Lịch sử hỗn loạn của một lục địa bị chia cắt, 1945-2002); [http://www.amazon.com/Struggle-Europe-Turbulent-Continent-1945-2002/dp/0385497989 mua sách này trên Amazon]</ref><ref>Helke Sander và Barbara Johr, phim tư liệu ''BeFreier und Befreite. Krieg, Vergewaltigung, Kinder'' (Những kẻ đem lại tự do lại cướp mất tự do. Chiến tranh, hãm hiếp, và trẻ con); [http://www.amazon.de/BeFreier-Befreite-Krieg-Vergewaltigung-Kinder/dp/3596163056 mua phim tư liệu này trên Amazon]</ref>. | |||
Tuy nhiên, giới sử học vẫn tranh cãi về tính xác thực và quy mô của những vụ hiếp dâm. Các nhà sử học Nga đã phủ nhận những cáo buộc về hiếp dâm hàng loạt, họ đưa ra bằng chứng là một lệnh ban hành ngày 19 tháng 1 năm 1945, yêu cầu việc ngăn ngừa ngược đãi thường dân Đức. Một lệnh của Hội đồng quân sự của Phương diện quân Byelorussia số một, có chữ ký của Nguyên soái Rokossovsky, đã ra lệnh xử bắn những binh lính phạm tội trộm cướp và hiếp dâm ngay tại hiện trường của vụ án. Một lệnh ban hành bởi Stavka (Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Hồng quân) vào ngày 20 tháng 4 năm 1945 phổ biến tới binh sĩ rằng cần phải duy trì quan hệ tốt với người dân Đức để giảm kháng cự và để chiến sự kết thúc nhanh hơn.<ref>http://actualhistory.ru/51</ref><ref>http://gpw.tellur.ru/page.html?r=books&s=beevor</ref><ref>http://svpressa.ru/war/article/8271/</ref> | |||
Trong khu vực chiếm đóng của Liên Xô, các thành viên của [[SED]] đã báo cáo cho [[Iosif Vissarionovich Stalin|Stalin]] cướp bóc và hãm hiếp bởi binh lính Liên Xô có thể dẫn đến một phản ứng tiêu cực của dân [[Đức]] đối với Liên Xô và hướng tới tương lai của chủ nghĩa xã hội ở [[Cộng hòa Dân chủ Đức|Đông Đức]]. Stalin đã phản ứng một cách giận dữ: ''"Tôi sẽ không tha thứ bất cứ ai kéo danh dự của Hồng quân qua vũng bùn."''<ref name="Leonhard, Revolution">[[Wolfgang Leonhard]], ''Child of the Revolution'',Pathfinder Press, 1979, ISBN 0-906133-26-2</ref><ref>Norman M. Naimark. ''The Russians in Germany: A History of the Soviet Zone of Occupation, 1945–1949.'' Harvard University Press, 1995. ISBN 0-674-78405-7</ref> | |||
Các nhà lãnh đạo Liên Xô rất bất bình với truyền thông của các nước phương Tây, khi họ vừa mới là đồng minh của họ trên mặt trận chống phát xít thì nay lại quay sang công kích Liên Xô. Bộ trưởng dân ủy ngoại giao Liên Xô V. M. Molotov chỉ ra rằng "chiến dịch hèn hạ" này nhằm phá hoại uy tín của Hồng quân và trút lên đầu những người lính Hồng quân tất cả những gì xảy ra do sự hỗn loạn trước đó tại những vùng do Liên Xô chiếm đóng. Ông nói: ''"Liên Xô và những bạn bè của chúng tôi trên thế giới đã có những thông tin cần thiết để chống lại chiến dịch tuyên truyền này"''.<ref>[http://militera.lib.ru/research/beevor2/27.html Бивор, Энтони. Падение Берлина. 1945. — М.: АСТ; Транзиткнига, 2004. ''Bản gốc: Anthony Beevor. Berlin. The Downfall 1945. — London. Viking, 2002.'' (Anthony Beevor. Berlin sụp đổ - 1945. AST; Tranzitkniga. Moskva. 2004. Chương 27: Nạn nhân của chiến thắng)]</ref> | |||
Tướng Gareyev, chủ tịch của Học viện Khoa học Quân sự Nga, nhận xét<ref>http://www.trud.ru/article/21-07-2005/90824_nasilie_nad_faktami/print</ref>: | |||
:''Tư lệnh tối cao Stalin đã ký một quyết định ngày 19 tháng 1 năm 1945, theo đó binh sĩ bị cấm tất cả các hành vi bạo lực chống lại dân thường Đức. Tất nhiên, sự trả thù, bao gồm cả bạo lực tình dục, đã xảy ra. Một số binh sĩ chỉ đơn giản là không thể kiềm chế tức giận sau những gì Đức quốc xã đã làm trên đất nước chúng tôi. Nhưng các trường hợp này đã bị trừng phạt nghiêm khắc. Và việc trả thù đã không trở nên phổ biến. Bởi vì ngay khi chúng tôi chiếm đóng các thành phố, kỷ luật đã được thắt chặt. Chúng tôi cung cấp cho người dân Đức thực phẩm, chăm sóc y tế, tuần tra an ninh. Cá nhân tôi đã tham gia giải phóng Đông Đức. Tôi cam đoan, việc lạm dụng tình dục thậm chí không hề được nghe thấy.'' | |||
Một phụ nữ Berlin, Elizabeth Shmeer, cho biết<ref>http://militera.lib.ru/research/dukov_ar/index.html</ref>: | |||
:''Đức quốc xã nói rằng nếu người Nga đến đây, họ sẽ tàn phá và hãm hiếp khủng khiếp. Nhưng thực tế sau đó rất khác: dù là những người bại trận, quân đội Đức đã gây ra rất nhiều đau khổ cho nước Nga, nhưng những người chiến thắng đã cho chúng tôi thực phẩm còn nhiều hơn những gì chính quyền cũ phân phát. Đối với chúng tôi điều đó rất khó hiểu. Một cách cư xử nhân đạo như vậy dường như chỉ người Nga làm được.'' | |||
=== Mỹ === | |||
{{xem thêm|Vụ thả bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki}} | |||
[[Tập tin:Victim of Atomic Bomb 003.jpg|nhỏ|250px|Nạn nhân của [[Vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki|vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima]]]] | |||
Trong [[trận Okinawa]], các nhà sử học Nhật Bản ước tính có trên 10 ngàn phụ nữ Nhật (khoảng 1/3 trong tổng số ngàn phụ nữ của đảo) bị lính Mĩ hãm hiếp trong chiến dịch kéo dài 3 tháng này.<ref name = "iiatou">[http://www.h-net.org/reviews/showrev.cgi?path=114661059720058 H-Net review of The GI War against Japan: American Soldiers in Asia and the Pacific during World War II]</ref> Tờ New York Time thông báo khoảng 2000 dân thường trong 1 làng ở Katsuyama bị lính Mỹ giết và cưỡng hiếp <ref>{{Chú thích báo|author=Lisa Takeuchi Cullen |url=http://www.time.com/time/world/article/0,8599,170085-2,00.html |title=Okinawa Nights |publisher=TIME |date=2001-08-13 |accessdate=2010-04-05}}</ref> | |||
Mỹ không tàn sát dân thường có hệ thống như Đức-Nhật{{fact|date=6-01-2013}}. Nhưng các trận ném bom rải thảm của không quân Mỹ cũng đã khiến cho hàng trăm nghìn thường dân Đức và Nhật bị thiệt mạng. Riêng trong một trận oanh tạc thành phố [[Dresden]], có vài chục ngàn dân thường Đức thiệt mạng. Các vụ ném bom Tokyo cũng khiến vài chục ngàn thường dân Nhật bản thiệt mạng. | |||
Đặc biệt, Mỹ đã để lại một dấu ấn kinh hoàng cho cả thế giới cho tới ngày hôm nay. Đó là vụ ném [[bom nguyên tử]] xuống Hiroshima và Nagasaki lúc chiến tranh gần kết thúc. Theo lệnh của Tổng thống Harry S Truman, Ngày 6 tháng 8 năm 1945, quả bom nguyên tử thứ nhất mang tên "Little Boy" đã được thả xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản. Sau đó 3 hôm, ngày 9 tháng 8 năm 1945, quả bom thứ hai mang tên "Fat Man" đã phát nổ trên bầu trời thành phố Nagasaki. | |||
Có nhiều nguyên nhân khiến con số chính xác người thiệt mạng không thống nhất{{fact|date=6-01-2013}}. Các số liệu khác nhau bởi được thống kê vào các thời điểm khác nhau. Rất nhiều nạn nhân chết sau nhiều tháng, thậm chí nhiều năm bởi hậu quả của phóng xạ. Theo ước tính, 140.000 người dân Hiroshima đã chết bởi vụ nổ cũng như bởi hậu quả của nó. Số người thiệt mạng ở Nagasaki là 74.000. Ở cả hai thành phố, phần lớn người chết là thường dân. | |||
Các công dân của các nước [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] cũng bị đau khổ trong các trường hợp họ là con cháu của những người từ các nước phe Trục. Điển hình là việc 120.000 [[người Mỹ gốc Nhật]] đã bị niêm phong gia sản và bị tập trung ở các trại giam giữa sa mạc trong thời kỳ chiến tranh (từ 1942 tới 1945), với lý do để đề phòng nguy cơ gián điệp. | |||
=== Nhật === | |||
Trong khi Holocaust do Đức gây ra rất có tổ chức và được nhiều người biết đến, số người bị giết có thể sánh được với số thường dân bị lực lượng [[Nhật Bản|Nhật]] tàn sát tại [[Trung Quốc]].{{Fact}} Tương tự như cách nhìn của Đức đối với các dân tộc phía đông nước Đức, người Nhật xem người Trung Quốc là mọi rợ và giới lãnh đạo chẳng những xem các [[tội ác chiến tranh]] là lẽ thường mà còn khuyến khích việc đó. Các ước tính số người bị chết do các hành vi này còn rất thiếu chính xác, nhưng có thể cao hơn 10 triệu, một số lượng lớn phụ nữ bị hãm hiếp có thể nhiều hơn các thống kê hiện tại.{{fact|date=6-01-2013}} Một số khu vực dưới sự kiểm soát của Nhật bị nạn đói thảm khốc, như [[Nạn đói năm Ất Dậu|Nạn đói Ất Dậu]] tại miền Bắc [[Việt Nam]]. | |||
=== Chiến tranh tổng lực === | |||
Được bắt đầu bởi [[Đức]] để khủng bố và giảm tinh thần quần chúng trong các vùng thành thị để Đức có thể tiến tới nhanh hơn, chiến tranh chiến lược dùng sức mạnh trên không gian để đánh vào các thành phố địch. Các chiến dịch của Đức có hiệu quả hữu hạn vì mẫu các máy bay ném bom không phù hợp vào việc này và lực lượng không quân còn nhỏ. | |||
Gần giữa chiến tranh, quân [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] bắt đầu dùng chiến thuật ném bom hàng loạt vào tận Đức. Để tránh sự chồng chéo nguy hiểm, có sự phân công: máy bay [[Anh]] thả bom ban đêm còn máy bay Mỹ đánh phá ban ngày. Với nhiều máy bay oanh tạc có tải trọng lớn và đủ khả năng bay đường dài, các trận ném bom này đã phá hủy nhiều thành phố Đức. Khi chiến tranh chấm dứt, họ có thể biến các khu vực đô thị thành một quầng lửa, làm tan tành thành phố. Số thường dân bị chết khá cao, tại Đức có khoảng 300.000 người. Riêng trong một trận oanh tạc thành phố [[Dresden]], có vài chục ngàn dân thường Đức thiệt mạng. Việc các chiến dịch này có giúp đem đến chiến thắng mau hơn vẫn còn chưa rõ. | |||
Dân thường tại [[Nhật Bản]] còn bị tấn công hơn nữa. Đức có các cơ sở công nghiệp xa nơi dân ở cho nên khu công nghiệp bị tấn công trước khu người ở. Trái lại, người dân Nhật ở đông đúc vào các khu vực thành phố trong các ngôi nhà được xây dựng bằng gỗ (tại Đức nhà cửa phần lớn được xây bằng đá), dễ bị đốt cháy và lan tràn khắp thành phố khi các quả bom được ném xuống. Thêm vào đó, Mỹ cũng sử dụng các máy bay thả bom mới hơn và lớn hơn tại Đức. | |||
Nếu tính đến cuối cùng, cú đánh mạnh nhất là hai cuộc tấn công bằng [[vũ khí hạt nhân|bom nguyên tử]] vào hai thành phố [[Hiroshima]] và [[Nagasaki]]. Tổng số người Nhật bị thiệt mạng lên đến 400.000 người lúc ban đầu, và thêm nhiều người chết vì di chứng nhiễm phóng xạ trong nhiều năm kế tiếp. Có sự tranh cãi về việc có cần thiết phải thả bom nguyên tử trên đất Nhật hay không. Phía [[Hoa Kỳ|Mỹ]] vẫn cho rằng việc này đã dẫn đến việc Nhật đầu hàng một cách mau chóng, tránh thương vong cao cho quân Mỹ nếu đánh vào Nhật bằng chiến tranh quy ước (như kinh nghiệm đánh lên hai đảo [[Đảo Iō|Iwo Jima]] và [[Okinawa]] đã cho thấy). | |||
== Kết quả == | |||
Hậu quả trực tiếp của chiến tranh này là sự chiến thắng của phía Đồng Minh. Mỗi nước trong phe Trục đều phải đầu hàng vô điều kiện. Đức bị các lực lượng từ Mỹ, Anh, Liên Xô và Pháp chiếm đóng, trong khi Áo bị chia cắt từ Đức và cũng bị chiếm đóng một cách tương tự. Nhật bị quân Mỹ chiếm đóng trong khi Liên Xô chiếm đóng các nước Đông Âu. | |||
[[Tập tin:ElbeDay1945 (NARA ww2-121).jpg|nhỏ|250px|Quân [[Hoa Kỳ|Mỹ]] và [[Liên Xô]] gặp nhau tại [[Torgau]] bên bờ [[elbe|sông Elbe]]]] | |||
Trái với [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]], khi các giới hạn làm suy yếu các nước và các nước thua cuộc bị ngăn chặn việc tái hội nhập cộng đồng quốc tế, các nước thua cuộc đã được cung cấp viện trợ để phục hồi và hội nhập cộng đồng thế giới như các quốc gia hoà bình khác. Vì lẽ đó, Đức và Nhật đã trở thành hai nước quan trọng và có nhiều ảnh hưởng mà không cần phải khiêu chiến. | |||
Sự thất bại của [[Hội Quốc Liên]] trong việc ngăn chặn chiến tranh đã dẫn đến việc thành lập [[Liên Hiệp Quốc]], một tổ chức quốc tế mới và có nhiều sửa đổi, cho đến nay vẫn là tổ chức quan trọng nhất trong việc thúc đẩy hoà bình và hợp tác. | |||
=== Tổn thất nhân mạng === | |||
==== Tại Châu Âu ==== | |||
Thống kê năm 1965 của Liên Hợp Quốc cho biết chỉ riêng số người thiệt mạng do chiến tranh ở Châu Âu đã lên đến 49.257.000 người. Những nước chịu thiệt hại lớn nhất gồm: | |||
* Liên Xô: 20.000.000 người {{Fact}}(theo tài liệu của Krivosheev năm 2005, con số này là 27.000.000 người, bao gồm 8,7 tới 10,7 triệu quân nhân và hơn 16 triệu thường dân; những nghiên cứu mới nhất của Nga tổng người chết có thể vượt 30 triệu) <ref>Báo Sự thật,Mascow, 1998</ref> | |||
* Đức: 9.700.000 người (theo tài liệu nghiên cứu năm 2000 của tiến sĩ Rüdiger Overmans, con số này bao gồm 5.300.000 quân nhân, 3.170.000 thường dân và 1.400.000 người Đức ở các quốc gia khác) {{fact|date=6-01-2013}} | |||
* Ba Lan: 6.028.000 người (theo tài liệu của Viện IPN - Ba Lan năm 2000, con số này là 5.600.000 đến 5.800.000 người, trong đó có khoảng 3.000.000 người Do Thái) {{Fact}} | |||
* Nam Tư: 1.600.000 người {{Fact}} | |||
* Pháp: 520.000 người {{fact|date=6-01-2013}} | |||
* Italia: 500.000 người <ref>Lịch sử quân sự Ý trong Thế chiến 2, bản wikipedia tiếng Anh</ref> | |||
* Tiệp Khắc: 364.000 người{{Fact}} | |||
* Hoa Kỳ: 325.000 người {{fact|date=6-01-2013}} | |||
* Anh: 320.000 người. {{fact|date=6-01-2013}} | |||
==== Tại Châu Á - Thái Bình Dương ==== | |||
* Hoa Kỳ: khoảng 300.000 người{{Fact}} | |||
* Nhật Bản: khoảng 2.200.000 người{{Fact}} | |||
* Trung Quốc: ước tính 18-20.000.000 người{{Fact}} | |||
* Hai miền Triều Tiên: khoảng 1.000.000 người{{Fact}} | |||
* Ấn Độ: 2.587.000 người{{Fact}} | |||
* Việt Nam: hơn 2.300.000 người{{Fact}} | |||
* Indonesia: khoảng 3.000.000 đến 4.000.000 người{{Fact}} | |||
=== Hậu quả lâu dài === | |||
Ngay sau chiến tranh, liên minh Đồng Minh đã bị rạn nứt khi có xung đột về hệ tư tưởng. Mỗi phía đã giành một khu vực khác nhau trong các lãnh thổ phe Trục. Tại [[châu Âu]], mỗi phía liên minh với nhau trong khu vực ảnh hưởng. Về phía tây, các nước Mỹ, Anh và Pháp đã lập ra Liên minh Bắc Đại Tây Dương ([[NATO]]). Về phía đông, Liên Xô lập ra liên minh với các nước Đông Âu khác trong [[Khối Warszawa|Hiệp ước Warszawa]]. Xung đột giữa hai phái sau này là một trong những hậu quả của cuộc chiến tranh này. | |||
Khắp mọi nơi, các phong trào chống thực dân phát triển mạnh hơn khi chiến tranh kết thúc. Điều này xuất phát từ hệ quả của Thế chiến thứ hai: | |||
* Những thiệt hại của các cường quốc châu Âu trong cuộc chiến này khiến họ mất đi rất nhiều năng lực quân sự và kinh tế khả dĩ có thể duy trì hệ thống thuộc địa. Trong khi đó các dân tộc thuộc địa đã chống lại một cách sống còn, quyết không nhân nhượng (như trường hợp [[Algérie]]). | |||
* Thời kỳ bị Đức chiếm đóng đã gây nên tác động sâu sắc đến tâm lý các dân tộc châu Âu. Họ biết đến mất mát của chiến tranh và nỗi khổ đau khi phải chịu ách thống trị. Điều này ít nhiều đã ảnh hưởng đến quyết tâm muốn trở lại cai trị các dân tộc thuộc địa của họ. | |||
* Các cuộc chiếm đóng của Đức Quốc xã ở Bắc Phi và Nhật Bản ở châu Á đã tàn phá uy tín của Anh, Pháp, Hà Lan đối với hệ thống thuộc địa của họ. Các dân tộc thuộc địa đã nhận thức được rằng những cường quốc cai trị mình vẫn có thể bị đánh bại. | |||
* Sự trỗi dậy của bá quyền Mỹ và việc mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô cũng tạo nguồn ủng hộ cho phong trào giải phóng thực dân, vì họ muốn hất cẳng tất cả các đế quốc châu Âu để thiết lập các lợi ích của họ trên thế giới, và điều này cũng không khó khăn mấy khi Tây Âu phải phụ thuộc vào viện trợ Mỹ để tái thiết. | |||
* Phong trào giải phóng dân tộc xảy đến là sự tất yếu. Những điều kiện vào cuối cuộc Thế chiến thật sự là cơ hội lớn cho các nước thuộc địa. | |||
Một vài cuộc xung đột đã trở thành chiến trường cho các cường quốc trong [[Chiến tranh Lạnh]], thậm chí có nhiều cuộc đã xảy ra trước khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu. Hai nước Anh và Pháp đã phải từ bỏ phần lớn các thuộc địa sau chiến tranh. [[Ấn Độ]] giành được độc lập từ Anh và [[Philippines]] giành độc lập từ Mỹ. Tại [[Bán đảo Đông Dương|Đông Dương]] và nhiều thuộc địa tại [[châu Phi]], các lực lượng kháng chiến phải chiến đấu mới giành được độc lập. | |||
Một quốc gia quan trọng đã xuất hiện là [[Israel]]. Sau cuộc thảm sát [[Holocaust]], dân Do Thái trên thế giới rất khao khát có được một quốc gia riêng. Nhiều người Do Thái đã có kinh nghiệm chiến đấu trong chiến tranh là việc quan trọng mà quốc gia này luôn phải đương đầu để được độc lập và tồn tại. | |||
== Các nước tham chiến và hậu quả == | |||
{{chính|Hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ hai}} | |||
[[Tập tin:Douglas MacArthur signs formal surrender.jpg|nhỏ|250px|Tướng Mỹ [[Douglas McArthur]] ký nhận đầu hàng vô điều kiện của [[Nhật Bản|Nhật]]]] | |||
Tất cả mọi quốc gia trên thế giới đều bị Chiến tranh thế giới thứ hai ảnh hưởng ít nhiều. Phần lớn đã tham chiến theo phía Đồng Minh hay phe Trục, và một số đã theo cả hai. Một số nước được thành lập vì chiến tranh, và một số không tồn tại được. | |||
Một số quốc gia tham chiến quan trọng nhất được liệt kê sau đây: | |||
* [[Đức Quốc Xã|Đức]]: Cường quốc chính của [[phe Trục]] tại [[châu Âu]], chiến tranh bắt đầu khi Đức xâm lược [[Ba Lan]], và chiến tranh chấm dứt tại chiến trường châu Âu sau khi Đức đầu hàng. | |||
* [[Pháp]]: Lực lượng chính của [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] tại lục địa châu Âu, Pháp đã tuyên chiến với Đức sau việc xâm lược Ba Lan. Pháp không hăng hái trong việc tham chiến và không chống cự nổi lực lượng Đức sau khi bị xâm lược vào năm [[1940]]. Khi chính quyền Pháp đầu hàng nhục nhã, một chính quyền bù nhìn thân Đức được thành lập, nhưng một số thuộc địa của Pháp vẫn trung thành với lực lượng [[Pháp Tự do]] vốn đứng về phía Đồng minh. | |||
* [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh]]: Trong khi Anh không có khả năng sản xuất như Mỹ hay có nhân lực như Liên Xô, họ vẫn là một thành phần quan trọng trong việc chiến thắng của lực lượng Đồng Minh trên cả hai chiến trường. | |||
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 183-J0422-0600-002, Berlin-Karlshorst, Kapitulation, Shukow, Keitel.jpg|nhỏ|phải|250px|[[Thống chế]] [[Wilheim Keitel]] thay mặt nước [[Đức Quốc Xã|Đức Quốc xã]] ký giấy chấp nhận đầu hàng [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] [[Liên Xô]], [[Hoa Kỳ|Mỹ]], [[Anh]], [[Pháp]] [[ngày 9 tháng 5 năm 1945]] tại [[Carlschorst]], [[Poshdam]]]] | |||
* [[Ý]]: Một đồng minh của Đức vào ban đầu, Ý có rất nhiều tham vọng lãnh thổ. Họ chỉ tham chiến sau khi số phận của Pháp đã an bài. Nỗ lực chiếm [[Hy Lạp]] và [[Ai Cập]] thất bại, thêm vào đó nhiều thất bại hải quân tại vùng [[Địa Trung Hải]] đã cho thấy Ý không đủ chuẩn bị cho cuộc chiến tranh này. Ý không có một quân đội mạnh, trang bị yếu kém, tinh thần bạc nhược ngay cả khi chiến đấu trên lãnh thổ của mình.Sau khi bị quân Đồng Minh xâm chiếm, nước Ý phát xít bị sụp đổ, một chính quyền mới thành lập theo phía Đồng Minh và đánh lại đồng minh Đức của họ. | |||
* [[Liên Xô]]: Đã ký thỏa thuận không xâm lược với Đức và có hành động xâm lược [[Phần Lan]]. Tuy nhiên, sau khi Đức thình lình tấn công vào năm [[1941]], Liên Xô theo phía Đồng Minh. Liên Xô bị nhiều tổn thất trước quân đội Đức, nhưng cuối cùng cũng thay đổi chiều hướng và chiếm đóng [[Berlin]] để chiến thắng tại châu Âu. Chính tại mặt trận Xô - Đức, quân đội phe Trục đã phải gánh chịu những tổn thất to lớn nhất: theo số liệu gần đây thì tổng số quân Đức bị chết, bị thương hoặc bị bắt làm tù binh trong chiến tranh thế giới lần thứ hai là gần 14 triệu người, trong đó riêng ở mặt trận Xô - Đức là 11,3 triệu người, chưa kể hơn 1,2 triệu quân Nhật và đồng minh châu Á của Nhật bị Liên Xô tiêu diệt hoặc bắt giữ trong [[Chiến dịch Mãn Châu (1945)|Chiến dịch Mãn Châu]]. | |||
* [[Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]]: Một trong những cường quốc phe Trục, Nhật Bản có lý do tham chiến riêng. Do không đủ tài nguyên, Nhật đã nỗ lực giành tài nguyên từ khu vực tây [[Thái Bình Dương]] và [[Đông Á]]. Nhưng họ không đủ tiềm lực để đánh quân Đồng Minh, và đã bị đẩy lùi và cuối cùng bị thả bom nguyên tử, cuối cùng Nhật Bản phải đầu hàng không điều kiện. | |||
* [[Trung Quốc]]: Không còn nhận dạng là một quốc gia được nữa khi chiến tranh bắt đầu, Trung Quốc đã nhận lãnh đòn chủ nghĩa quân phiệt của Nhật trên một thập kỷ. Cả hai phía Quốc dân đảng, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, và phía Đảng Cộng sản, đã dùng cách đánh [[du kích]] để kháng cự chống Nhật. | |||
* [[Hoa Kỳ]]: Đang phân vân về vấn đề tham chiến, Hoa Kỳ bị cuốn vào chiến tranh khi Nhật tấn công bất ngờ và Đức tuyên chiến. Hoa Kỳ dùng khả năng kinh tế và công nghiệp an toàn để tiếp tế cho tất cả các nước Đồng Minh và đã tạo lực lượng và duy trì nỗ lực tại châu Âu và Thái Bình Dương. Hoa Kỳ cũng là nước tham gia trên nhiều mặt trận nhất và viện trợ nhiều nhất cho các nước Đồng Minh. Hoa Kỳ cũng là nước duy nhất tham chiến mà lãnh thổ và nền kinh tế hầu như không bị chiến tranh tàn phá và họ còn thu được lợi từ các hợp đồng bán vũ khí, nguyên liệu, lương thực... | |||
== Tóm tắt == | |||
[[Tập tin:Bird in Tank Gun Barrel - Prokhorovka - Russia.JPG|nhỏ|phải|300px|[[Chim bồ câu]] trong nòng [[pháo]] tại [[Prokhorovka]] ([[Nga]], [[2008]]), biểu tượng cho số phận mong manh của sự sống trước hiểm họa chiến tranh]] | |||
Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc xung đột vũ trang lớn nhất lịch sử. Không cuộc xung đột nào trước đó hay sau đó bao gồm số nước tham gia nhiều hơn, ảnh hưởng diện tích đất lớn hơn, hay giết nhiều mạng người và phá hoại nhiều hơn. Tuy nhiên, sự lớn lao của cuộc chiến này chỉ là một trong nhiều khía cạnh nổi bật nhất của nó. Một số khía cạnh khác đáng được chú ý là: | |||
* Ảnh hưởng thế giới lâu dài: Hầu hết các quốc gia đã theo phía này hay phía kia trong chiến tranh. Một số quốc gia theo cả hai phía vào các thời điểm khác nhau. Mọi lục địa có người ở, trừ [[Nam Mỹ]], đều có trận chiến. Ngay cả các nước trung lập cũng bị ảnh hưởng sâu sắc trong chiến tranh và sau chiến tranh. | |||
* Phát triển kỹ thuật: Trong nhiều lĩnh vực kỹ thuật, sự tiến triển rất nhanh chóng vì chiến trường có nhu cầu cải tiến kỹ thuật. Diễn tiến này có rất rõ trong trong các lĩnh vực kỹ thuật quân sự, từ [[máy bay]] đến xe cộ và [[máy tính]]. | |||
* [[Vũ khí hạt nhân|Bom nguyên tử]]: Chiến tranh thế giới thứ hai đã dẫn đến một cuộc cạnh tranh giữa một số nước để khai thác [[năng lượng hạt nhân|năng lượng nguyên tử]] và phát triển [[vũ khí hạt nhân]]. Nước [[Hoa Kỳ|Mỹ]] thắng cuộc trong cạnh tranh này và đã sử dụng vũ khí nguyên tử lần đầu tiên trên thế giới để tạo ra ưu thế trong việc phân chia thế giới sau chiến tranh. | |||
* [[Chiến tranh toàn diện|Chiến tranh tổng lực]]: Chiến tranh này đã diễn ra theo cách thức chiến tranh tổng lực như Thế chiến I (''strategic warfare'') <ref>vi.wikipedia: Chiến tranh thế giới I</ref>. Chiến tranh này không những chỉ là để đánh bại quân địch và chia cắt vật chất, mà còn phải tấn công thẳng vào các khu vực người ở và công nghiệp để phá hủy khả năng sản xuất và ý chí của địch. | |||
* Kháng cự của người dân: [[Chiến tranh du kích]] không phải mới, nhưng trong hầu hết những nước bị quân địch (đặc biệt là [[Đức]] và [[Nhật Bản|Nhật]]) chiếm giữ, nhiều cuộc nổi dậy kháng chiến đã nổ ra. Mặc dù các phong trào này thường không tự giải phóng được đất nước, họ cũng đã làm quân chiếm đóng phải hao tổn công sức, và lãnh thổ không bao giờ bị chiếm giữ toàn bộ. Việc này đã chứng minh rằng, việc chinh phục và lôi kéo một dân tộc đối nghịch bằng vũ lực là một chuyện không dễ dàng. | |||
== 註釋 == | == 註釋 == |