𨀈𬧐內容

恪別𡧲版𢯢𢷮𧵑「𡨸喃」

31.101 bytes added 、 𣈜12𣎃4𢆥2015
no edit summary
n空固𥿂略𢯢𢷮
空固𥿂略𢯢𢷮
𣳔1: 𣳔1:
[[File:Chu_nom.svg|200px|thumb|𡨸喃]]
[[File:Chu_nom.svg|200px|thumb|𡨸喃]]
'''𡨸喃'''(Chữ Nôm)羅𠸜噲𧵑格曰[[表意]]中時[[古代]]𠄧[[中代]]𧵑[[㗂越]]𢭸𨕭仍成素𧵑[[𡨸漢]]常抵曰仍㗂純越,噲羅'''國音'''。
'''𡨸喃'''({{hn|links=no|cn=字喃·𡨸喃·𡦂喃}})羅𠸛噲𧵑格曰[[𡨸象形|表意]]𥪝時[[古代]][[中代]]𧵑[[㗂越]]、𣎏𠬠時期𨱽得䀡羅言語國家(國語)、噲羅'''國音'''。


==歷史==
==歷史==
[[集信: Tu duc thanh che tu hoc giai nghia ca.jpg |𡮈|沛|冊''嗣徳聖製字學解義歌''用𡨸喃抵學𡨸儒]]


==形成==
===形成===
====各觀點𧗱事𠚢𠁀𧵑𡨸喃====
格構造𡨸喃"𣎏體"㐌萌芽𣋼樣自仍𢆥頭欺[[𠊛花|𠊛中華]]征服𡐙[[交趾]](沔北越南)吧撻𡋂都護𨕭各部落[[𠊛越]]𠓨頭[[公元|公元]]。爲言語恪別、仍"𡨸喃"頭先出現爲需求記地名、𠸛𠊛或仍概念空𣎏𥪝漢文。𠼾證據群留吏𥃞{{r|飭|sức}}𠃣喂、𧁷檢證得𠬠格正確。


慄𣎏勢中[[歷史]],𡨸喃㐌造𠚢自仍年頭欺[[𠊚中華]]征服[[沔北渃越南]]𣈜𠉞。仍𡨸喃頭先得使用抵指格噲地名,或仍概念空𣎏中漢文,嚜𠱋調呢由仍據料成文群吏盡飭𠃣煨,㐌空體檢證得𠬠格正確。[[范輝琥]]中《越南些別𡨸漢自代鬧》朱哴𡨸喃𣎏自時雄王。文多居士[[阮文珊]]朱哴𡨸喃𣎏自時[[士燮]]𡳳代東漢世紀次𠄩。[[阮文訴]]𢭸𠓨𠄩𡨸「布蓋」中辭語「布蓋大王」由人民越南推尊[[馮興]]麻朱哴𡨸喃𣎏自時馮興世紀𠔭。𣎏意見恪吏𢭸𠓨𡨸「瞿」中國名「大瞿越」抵斷定𡨸喃𣎏自時[[丁先皇]]。中𠬠數硏究𠓨十年1990,各家硏究根據𠓨特點構築內在𧵑𡨸喃,𢭸𠓨據料語音歷史㗂漢𠄧㗂越,芻𠁔對照系統音㗂漢𠄧㗂漢越㐌𠫾細肯定音漢越(音𧵑𠊚越讀𡨸漢)㝵𠉞扒源自時唐宋世紀8-9。
[[范輝琥]]中《越南些別𡨸漢自代鬧》朱哴𡨸喃𣎏自時雄王。文多居士[[阮文珊]]朱哴𡨸喃𣎏自時[[士燮]]𡳳代東漢世紀次𠄩。[[阮文訴]]𢭸𠓨𠄩𡨸「布蓋」中辭語「布蓋大王」由人民越南推尊[[馮興]]麻朱哴𡨸喃𣎏自時馮興世紀𠔭。𣎏意見恪吏𢭸𠓨𡨸「瞿」中國名「大瞿越」抵斷定𡨸喃𣎏自時[[丁先皇]]
𡀮音漢越𣎏自時唐,宋時𡨸喃空𣎏勢𠚢代? ?欺固定格讀漢越(𡀮𥌀𡨸喃𢭲資格系統文字)𠄧只𣎏勢𠚢代𢖖世紀次10欺越南𢴎塊𠦳年[[北屬]]𢭲戰勝𧵑[[吳權]]𠓨年938。


𢖖欺[[越南]]脫塊扼都護𧵑[[中國]]𠓨年[[939]],𡨸喃得完整寅寅𠄧只𦤾世紀13-15𡤓得用𡗉中文章。
𥪝𠬠數研究𠓨[[十年1990]]、各學者根據𠓨特點構築內在𧵑𡨸喃、預𠓨據料語音歷史㗂漢吧㗂越、搊𤯭對照系統音㗂漢吧㗂[[詞漢越|漢越]]㐌𠫾𬧐結論哴音漢越(音𧵑𠊛越讀𡨸漢)𣈜𠉞扒源自時[[家唐]]-[[家宋]][[世紀8]]-[[世紀9|9]]。吧𡀮音漢越𣎏自時塘、宋時𡨸喃空體𠚢𠁀𠓀欺固定格讀漢越(𡀮𥌀𡨸喃𢭲資格系統文字)吧只𣎏體𠚢𠁀𢖖曠[[世紀10|世紀次10]]欺𠊛越脫塊𠦳𢆥[[北屬]]𢭲戰勝𧵑[[吳權]]𠓨𢆥[[938]]。<ref>分"時期𡨸喃𠚢𠁀"、𥪝冊''敎程漢喃''、集2(集𡨸喃)、部門漢喃場大學總合河內編撰、印在家出版大學吧教育專業、河內、1990。張8-9。</ref>
 
𨀈𨖅時期自主扒頭𠓨[[世紀10]]𡨸喃得完整寅吧𫡠𦤾[[世紀13]]-[[世紀15|15]]𡤔發展猛{{r|𠸍|mẽ}}𥪝文章。
 
𧗱文本時欺尋證迹𠓀時[[家李]]、文籍完全空留吏𧿫𧿭𡨸喃芇哿。𨖅時李時𡤔𣎏𠬠數𡨸喃如𥪝排碑記於{{r|廚|chùa}}社Hương Nộn、縣[[Tam Nông]]省[[Phú Thọ]](鑿𢆥[[1173]]年號Chính Long Bảo Ứng thứ 11)咍碑{{r|廚|chùa}}Tháp Miếu、縣[[Yên Lãng]](𠉞屬[[Phúc Yên]]、省[[Vĩnh Phúc]](鑿𢆥[[1210]]朝𤤰[[Lý Cao Tông]])。
 
𠓀作時沛𨖅時[[家陳]]𡤔𣎏𧿫蹟𤑟𠒥。<ref>[http://www.ivce.org/magazinedetail.php?magazinedetailid=MD00000068 Giới-Thiệu "Lược Khảo Vấn Ðề Chữ Nôm Của Cụ TRẦN VĂN GIÁP]</ref>
 
=== Phát triển ===
[[Tập tin:Phan Trần Truyện, Thành-thái Nhâm-dần 1902.JPG|nhỏ|phải|Truyện Nôm ''Phan Trần'', ấn bản Nhâm dần (1902) triều [[Thành Thái]]]]
[[Tập tin:Chữ Nôm khảm xà cừ trên điếu ống.jpg|nhỏ|phải|Chữ Nôm khảm xà cừ dùng trang trí trên [[điếu ống]] thế kỷ 19-20 thời Nguyễn]]
 
Ban đầu khi mới xuất hiện,  chữ Nôm thuần túy  mượn dạng chữ Hán y nguyên để ghi âm tiếng Việt cổ (mượn âm để chép tiếng Quốc âm). Phép đó gọi là chữ "giả tá". Dần dần phép ghép hai chữ Hán lại với nhau, một phần gợi âm, một phần gợi ý được dùng ngày càng nhiều và có hệ thống hơn. Phép này gọi là "hài thanh" để cấu tạo chữ mới. Kể từ [[nhà Lê sơ|thời Lê]] về sau số lượng sáng tác bằng chữ Nôm tăng dần trong suốt 500 năm từ [[thế kỷ 14]] đến [[thế kỷ 20]]. Dồi dào nhất là các áng thi văn có tính cách cảm hứng, tiêu khiển, và nặng phần tình cảm. Những tác phẩm Nôm này rất đa dạng: từ [[Hàn luật]] (thơ Nôm (tiếng Việt) theo luật Đường), đến [[văn tế]], truyện thơ [[thơ#Lục bát|lục bát]], [[thơ song thất lục bát|song thất lục bát]], [[phú]], [[hát nói]], [[tuồng]], [[chèo]]. Văn Nôm đã diễn tả đầy đủ mọi tình cảm của dân tộc Việt, khi thì hào hùng, khi bi ai; khi thì trang nghiêm, khi bỡn cợt.
 
==== Trước thế kỷ 15 ====
Một số di tích còn lưu lại dấu vết chữ Nôm trước thế kỷ 15 nhưng số lượng không nhiều ngoài vài văn bia. Tuy nhiên có thuyết cho rằng một tác phẩm quan trọng là tập ''Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh'' đã ra đời vào thời [[nhà Lý]] khoảng [[thế kỷ 12]]. Đây cũng là đặc điểm vì tập này là [[văn xuôi]], một thể văn ít khi dùng chữ Nôm.<ref>[http://khoavanhoc-ussh.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=925:qpht-thuytq-co-phi-dch-phm-nom-ca-th-k-xii&catid=84:han-nom&Itemid=248 ""Phật thuyết" có phải dịch phẩm Nôm của thế kỉ XII?"]</ref>
 
[[Nhà Trần]] cũng để lại một số tác phẩm chữ Nôm như mấy bài [[phú]] của vua [[Trần Nhân Tông]]: "[[Cư trần lạc đạo phú]]" (居塵樂道賦) và "Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca" (得趣林泉成道歌).<ref name="Từ hai bài phú Nôm...">[http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/nh%E1%BB%AFng-g%C3%B3c-nh%C3%ACn-v%C4%83n-h%C3%B3a/tu-hai-bai-phu-nom-va-mot-so-bai-tho-chu-han-cua-duc-vua-tran-nhan-tong-1258-1308-tim-hieu-tu-tuong-thien-cua-phai-truc-lam-yen-tu "Từ hai bài phú Nôm..."]</ref><ref>[http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=300%3Atim-hiu-gia-tr-c-trn-lc-o-phu-ca-trn-nhan-tong-&catid=63%3Avn-hc-vit-nam&Itemid=106&lang=vi Tìm hiểu giá trị "Cư trần lạc đạo Phú" của Trần Nhân Tông"]</ref>
 
==== Thế kỷ 15-17 ====
Thời kỳ này phần lớn thi văn lưu truyền biết tới nay là thơ Hàn luật bát cú hoặc tứ tuyệt. Một số là trước tác cảm hứng riêng như: ''[[Quốc âm thi tập]]'' ([[Nguyễn Trãi]]), ''[[Hồng Đức quốc âm thi tập]]'' ([[Lê Thánh Tông]]), ''[[Bạch Vân am thi tập]]'' ([[Nguyễn Bỉnh Khiêm]]), ''Ngự đề hoà danh bách vịnh'' (Chúa [[Trịnh Căn]]), ''Tứ thời khúc vịnh'' ([[Hoàng Sĩ Khải]]), ''Ngọa long cương'' ([[Đào Duy Từ]]); nhưng cũng không thiếu những tác phẩm theo dạng [[sử Ký (định hướng)|sử ký]] như: ''[[Thiên Nam Minh giám]]'', ''[[Thiên Nam ngữ lục]]''. Thơ [[thơ#Lục bát|lục bát]] cũng xuất hiện với tác phẩm "Cảm tác" của [[Nguyễn Hy Quang]], được sáng tác năm [[1674]].
 
Ngoài ra bên đạo [[Công giáo]] cũng có vài tác phẩm bằng chữ Nôm thuộc thời kỳ này, trong đó có ''Sấm truyền ca'' của Lữ Y Đoan, soạn năm [[1670]].<ref>Lữ-y Đoan. ''Sấm-truyền ca Genesia''. Montréal: Tập san Y sĩ, 2000.</ref>
 
==== Thế kỷ 18-19 ====
[[Thơ Hàn luật]] của những thế kỷ kế tiếp càng uyển chuyển, lối dùng chữ càng tài tình, hóm hỉnh như thơ của [[Hồ Xuân Hương]] hay [[Bà Huyện Thanh Quan]]. Ngược lại thể thơ dài như [[Ai tư vãn]] của [[Lê Ngọc Hân|Ngọc Hân Công chúa]] cùng thể [[thơ song thất lục bát|song thất lục bát]] trong ''[[Chinh phụ ngâm]]'' của [[Đoàn Thị Điểm]] lưu danh những nữ sĩ biệt tài thời trước. Riêng ''Chinh phụ ngâm'' được xem là một tuyệt tác, có phần trội hơn nguyên bản chữ Nho.
 
Thể song thất lục bát cũng lưu lại tác phẩm ''[[Cung oán ngâm khúc]]'', lời văn cầu kỳ, hoa mỹ nhưng thể thơ phổ biến nhất là truyện thơ [[thơ#Lục bát|lục bát]], trong đó phải kể [[Truyện Kiều]] ([[Nguyễn Du]]) và ''[[Lục Vân Tiên]]'' ([[Nguyễn Đình Chiểu]]). Văn từ truyện thơ bình dị hơn nhưng lối hành văn và ý tứ không kém sâu sắc và khéo léo. Những tác phẩm truyện Nôm khuyết danh khác như [[Thạch Sanh (truyện thơ)|Thạch Sanh]], [[Trê Cóc]], [[Nhị độ mai]], [[Phan Trần]], [[Tấm Cám]], [[Lưu Bình - Dương Lễ|Lưu Bình Dương Lễ]], [[Ngư tiều vấn đáp y thuật]], Nữ tú tài, Tô Công phụng sứ, tất cả được phổ biến rộng rãi khiến không mấy người Việt lại không biết vài câu, nhất là [[Truyện Kiều]].
 
Dưới triều đại [[nhà Tây Sơn]], do sự hậu thuẫn của [[Nguyễn Huệ|Quang Trung]] hoàng đế, toàn bộ các văn kiện hành chính bắt buộc phải viết bằng chữ Nôm trong 24 năm, từ [[1788]] đến [[1802]].
 
==== Thế kỷ 19-20 ====
Thời kỳ cuối của chữ Nôm xuất hiện nhiều tác phẩm thi ca theo thể [[hát nói]] như của [[Nguyễn Khuyến]], [[Chu Mạnh Trinh]], [[Trần Tế Xương|Tú Xương]] v.v. Những thể cũ [[thơ song thất lục bát|song thất lục bát]] và lục bát (các truyện Nôm) vẫn góp mặt song thêm vào đó là những vở [[tuồng]] hoặc [[chèo]] dân gian cũng được soạn bằng chữ Nôm như [[Kim Thạch kỳ duyên]], [[Chàng Lía]] (Văn Doan diễn ca), [[Quan Âm Thị Kính (truyện thơ)|Quan Âm Thị Kính]].
 
Đối ngược lại tài liệu [[văn học]], [[triết học]], [[lịch sử|sử học]], [[luật pháp]], [[y học|y khoa]], [[tôn giáo]] nhất là [[văn xuôi]] tuy có được ghi lại bằng chữ Nôm nhưng tương đối ít. Văn vần thì có vài tác phẩm như ''[[Đại Nam Quốc sử Diễn ca|Đại Nam quốc sử diễn ca]]'' (thời Nguyễn). Song sử liệu, nhất là chính sử cùng các văn bản hành chính của triều đình thì nhất thể đều bằng chữ Hán. Ngoại lệ là những năm tồn tại ngắn ngủi của [[nhà Hồ]] ([[thế kỷ 15]]) và [[nhà Tây Sơn]] ([[thế kỷ 18]]). Những văn bản hành chính như sổ sách, công văn, giấy tờ, thư từ, khế ước, địa bạ v.v. chỉ đôi khi xen chữ Nôm nếu không thể tìm được một chữ Hán đồng nghĩa để chỉ các danh từ riêng (như tên đất, tên làng, tên người), nhưng tổng thể vẫn là văn bản Hán Việt bởi quan niệm chung của giới sĩ đại phu các triều đại bấy giờ thì cho là: "nôm na là cha mách qué". Dù vậy chữ Nôm đã đóng góp đa dạng, đúng là công cụ thuần Việt ghi lại lịch sử văn hoá của dân tộc trong khoảng 10 thế kỷ, mặc dù đó là công cụ còn nhiều hạn chế về mặt kỹ thuật cũng như mức phổ dụng so với chữ Hán.
 
== Sự kết thúc của chữ Nôm và Hán ==
[[Tập tin:1938 Vietnamese Birth Certificate in Nôm.jpg|nhỏ|phải|Đơn khai sinh năm 1938 ở [[Bắc Kỳ]] có bốn dạng chữ: [[quốc ngữ|chữ Quốc ngữ]] lẫn chữ Nôm cùng dấu triện bằng [[tiếng Pháp]] và vài [[chữ Hán|chữ Nho]]]]
=== Chữ Quốc ngữ xuất hiện ===
Chữ Nôm được dùng song song với chữ Hán cho đến [[thế kỷ 16]] khi các [[nhà truyền đạo]] phương Tây vào [[Việt Nam]], họ đã dùng [[bảng chữ cái Latinh|kí tự Latinh]] để phiên âm tiếng Việt, và chữ [[Quốc ngữ]] dựa trên [[bảng chữ cái Latinh|kí tự La Tinh]] được hình thành. Mặc dù dễ học, dễ nhớ, việc dùng chữ Quốc ngữ sau đó chỉ phổ biến trong [[công giáo tại Việt Nam|cộng đồng giáo dân]] trong phạm vi ghi chép [[Kinh Thánh]] chứ không được sử dụng nhiều trong việc làm phương tiện trứ tác hay truyền đạt thông tin. Chữ Nôm vì vậy vẫn là văn tự chính trong nền văn chương Việt Nam mãi cho tới hết [[thế kỷ 19]]. Sang đầu [[thế kỷ 20]] [[Liên bang Đông Dương|chính quyền Pháp]] cho giải thể phép [[Thi cử Nho học|thi cử]] [[chữ Hán|chữ Nho]] ([[1915]] ở [[Bắc Kỳ]] và [[1919]] ở [[Trung Kỳ]]) và đưa chữ Quốc ngữ lên hàng văn tự chính thức. Bắt đầu từ năm [[1908]] chữ Quốc ngữ mới bắt đầu thay thế chữ Nôm. Phong trào [[Đông Kinh Nghĩa Thục]] ([[1907]]) và [[Hội Truyền bá Quốc ngữ]] ([[1938]]) cũng như sự phát triển [[báo chí]] vào đầu thế kỷ 20 đã góp phần trong việc thâu nhận chữ Quốc ngữ là văn tự chính đáng của người Việt, khép lại thời kỳ dùng chữ Nôm để truyền đạt tư duy cùng những cảm hứng của dân tộc Việt.
 
=== Địa vị chữ Nôm lu mờ ===
Sau khi chữ Quốc ngữ ([[bảng chữ cái Latinh|dùng mẫu tự Latinh]]) được phổ biến vào đầu [[thế kỷ 20]], chữ Nôm dần dần mai một. Mất vị trí là phương tiện ghi chép, chữ Nôm tàn lụi dần trong bối cảnh tiến trình Âu hóa ngày càng mạnh ở Việt Nam. Được sự cổ xúy của thủ lĩnh các phong trào duy tân đương thời, chữ Quốc ngữ đã trở nên phổ biến và khẳng định chỗ đứng của nó trong hệ thống văn tự mới của dân tộc theo mô hình phương Tây, thoát khỏi ảnh hưởng [[Hán học]]. Lối văn tự đó nở rộ với phong trào [[Thơ mới]] và các sáng tác của [[Tự Lực văn đoàn|Tự lực văn đoàn]]. Từ đó di sản chữ Nôm về mặt kiến thức cũng như văn tịch cổ ngày càng bị đe dọa, có nguy cơ mất hẳn. Ngày nay, ở Việt Nam và cả thế giới rất ít người còn đọc được văn bản chữ Nôm từ nguyên tác. Hậu quả là một phần quan trọng của [[lịch sử Việt Nam|lịch sử]] và [[văn học Việt Nam]] đã nằm ngoài tầm tay của trên 90 triệu người nói tiếng Việt.
 
== Những cách tạo chữ Nôm ==
[[Tập tin:ThuykieuTruyen.jpg|nhỏ|phải|Áng văn Nôm Truyện Kiều bản Chiêm Vân Thị dưới tựa ''Thúy Kiều Truyện tường chú'']]
[[Tập tin:Vietnamese chu nom example.svg|nhỏ|phải|Ba câu lục bát đầu của ''[[Truyện Kiều]]'']]
=== Mượn cả âm và nghĩa của chữ Hán ===
Mượn cả âm đọc (âm Hán Việt) và nghĩa của chữ Hán để ghi lại các từ [[từ Hán Việt]]. Âm Hán Việt có ba loại là:
*Âm Hán Việt tiêu chuẩn: bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán thời [[Nhà Đường|Đường]]. Ví dụ: "ông" 翁, "bà" 婆, "thuận lợi" 順利, "công thành danh toại" 功成名遂.
*Âm Hán Việt cổ: bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán trước thời Đường. Ví dụ: "mùa" 務 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là"vụ"), "bay" 飛 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là "phi"), "buồng" 房 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là "phòng").
*Âm Hán Việt Việt hoá: là các âm gốc Hán bị biến đổi cách đọc do ảnh hưởng của quy luật ngữ âm tiếng Việt. Ví dụ: "thêm" 添 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là "thiêm"), "nhà" 家 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là "gia"), "khăn" 巾 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là "cân"), "ghế" 几 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là "kỉ").
Ba loại âm Hán Việt kể trên đều được dùng trong chữ Nôm.
=== Mượn âm chữ Hán, không mượn nghĩa ===
Mượn chữ Hán đồng âm hoặc cận âm để ghi âm tiếng Việt. Âm mượn có thể là âm Hán Việt tiêu chuẩn, âm Hán Việt cổ hoặc âm Hán Việt Việt hoá. Khi đọc có thể đọc giống với âm mượn hoặc đọc chệch đi. Ví dụ:
*Đọc giống như âm Hán Việt tiêu chuẩn: chữ "một" 沒 có nghĩa là "chìm" được mượn dùng để ghi từ "một" trong "một mình", chữ "tốt" 卒 có nghĩa là "binh lính" được mượn dùng để ghi từ "tốt" trong "tốt xấu", chữ "xương" 昌 có nghĩa là "hưng thịnh" được mượn dùng để ghi từ "xương" trong "xương thịt", chữ "qua" 戈 là tên gọi của một loại binh khí được mượn dùng để ghi từ "qua" trong "hôm qua".
*Đọc chệch âm Hán Việt tiêu chuẩn: "gió" 這 (mượn âm "giá"), "cửa" 舉 (mượn âm "cử"), "đêm" 店 (mượn âm "điếm"), "chạy" 豸 (mượn âm "trãi").
*Đọc giống như âm Hán Việt cổ: chữ "keo" 膠 ("keo" trong "keo dán", âm Hán Việt tiêu chuẩn là "giao") được dùng để ghi lại từ "keo" trong "keo kiệt", chữ "búa" 斧 ("búa" trong "cái búa", âm Hán Việt tiêu chuẩn là "phủ") được dùng để ghi lại từ "búa" trong "chợ búa" ("búa" trong "chợ búa" là âm Hán Việt cổ của chữ "phố" 鋪).
===Mượn nghĩa chữ Hán, không mượn âm===
Mượn chữ Hán đồng nghĩa hoặc cận nghĩa để ghi lại âm tiếng Việt. Ví dụ: chữ "dịch" 腋 có nghĩa nghĩa là "nách" được dùng để ghi lại từ "nách" trong "hôi nách", chữ "năng" 能 có nghĩa là "có tài, có năng lực" được dùng để ghi lại từ "hay" trong trong "văn hay chữ tốt".
===Tạo chữ ghép===
Chữ ghép, còn gọi chữ là chữ hợp thể, là chữ được tạo ra bằng cách ghép hai hoặc nhiều hơn chữ khác thành một chữ. Các chữ cấu thành nên chữ ghép có thể đóng vai trò là thanh phù (bộ phận biểu thị âm đọc của chữ ghép) hoặc nghĩa phù (bộ phận biểu thị ý nghĩa của chữ ghép) hoặc vừa là thành phù vừa là nghĩa phù hoặc dùng làm phù hiệu chỉnh âm chỉ báo cho người đọc biết chữ này cần phải đọc chệch đi. Chúng có thể được viết nguyên dạng hoặc bị viết tỉnh lược mất một phần hoặc thay bằng chữ giản hóa. Thanh phù luôn có âm đọc giống hoặc gần giống với âm đọc của chữ ghép. Phù hiệu chỉnh âm được dùng trong chữ Nôm là bộ "khẩu" 口 (đặt ở bên trái chữ ghép), dấu "cá" 亇 (bắt nguồn từ chữ "cá" 个 viết theo thể [[thảo thư]], đặt ở bên phải chữ ghép), dấu nháy "𡿨" (đặt ở bên phải chữ ghép), bộ "tư" 厶 (đặt ở bên trên hoặc bên phải chữ ghép), dấu "冫" (đặt bên trái chữ ghép, chỉ thấy dùng trong các bản văn bản Nôm ở vùng Nam Bộ Việt Nam).
 
Một số ví dụ về chữ ghép:
*"chân" 蹎 ("chân" trong "chân tay"): chữ này được cấu thành từ chữ "túc" 足 và chữ "chân" 真. "Túc" 足 có nghĩa là "chân" được dùng làm "nghĩa phù" biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. Trong chữ ghép chữ "túc" 足 khi đứng ở bên trái phải viết dưới dạng biến thể gọi là "bàng chữ túc" ⻊. Chữ "chân" 真 ("chân" trong "chân thành") đồng âm với "chân" trong "chân tay" được dùng làm thanh phù biểu thị âm đọc của chữ ghép.
*"gạch" 𥗳 ("gạch" trong "gạch ngói"): chữ này được cấu thành từ chữ "thạch" 石 và chữ "ngạch" 額. "Thạch" 石 có nghĩa là "đá" được dùng làm nghĩa phù, ý là gạch thì được làm bằng đất đá. "Ngạch" 額 dùng làm thanh phù.
*"khói" 𤌋: chữ này được cấu thành từ chữ "hỏa" 火 và chữ "khối" 塊 bị tỉnh lược  một phần (tỉnh lược bộ "thổ" 土 ở bên trái chữ "khối" 塊). "Hỏa" 火 có nghĩa là lửa, gợi ý nghĩa của chữ ghép (lửa cháy tạo ra khói), "khối" 塊 gợi âm đọc của chữ ghép.
*"ra" 𦋦: chữ này được cấu thành từ chữ "la" 羅 giản hóa và chữ "xuất" 出. "Xuất" 出 có nghĩa là "ra" biểu thị ý nghĩa của chữ ghép.
*"trời" 𡗶: chữ này được cấu thành từ chữ "thiên" 天 có nghĩa là "trời" và chữ "thượng" 上 có nghĩa là "trên", ý là "trời" thì nằm ở trên cao.
*"lử" 𠢬 ("lử" trong "mệt lử") gồm chữ "vô" 無 có nghĩa là "không có" và chữ "lực" 力 có nghĩa là "sức, sức lực", ý là "lử" là không còn sức lực gì nữa.
*
 
Tiếng Việt hiện đại không có phụ âm kép nhưng trong tiếng Việt từ giai đoạn trung đại trở về trước thì lại có phụ âm kép. Trong chữ Nôm hợp thể để biểu thị các phụ âm kép người ta dùng một hoặc hai chữ làm thanh phù. Nếu dùng hai chữ làm thanh phù thì một chữ sẽ dùng để biểu thị phụ âm thứ nhất của phụ âm kép, chữ còn lại biểu thị phụ âm thứ hai của phụ âm kép. Ví dụ:
*"blăng" 𣎞: "Blăng" hiện nay đã biến đổi thành "trăng, giăng". Chữ "blăng" 𣎞 được cấu thành từ chữ "ba" 巴, chữ "lăng" 夌 và chữ "nguyệt" 月. "Ba" 巴 biểu thị phụ âm thứ nhất "b" của phụ âm kép "bl", "lăng" 夌 biểu thị phụ âm thứ hai "l" và phần vần của từ "blăng", "nguyệt" 月 có nghĩa là "mặt trăng" biểu thị ý nghĩa của chữ ghép này.
*"mlời" 𠅜: "Mlời" hiện nay đã biến đổi thành "lời, nhời" ("lời" trong "lời nói"). Chữ "mlời" 𠅜 được cấu thành từ chữ "ma" 麻 (bị tỉnh lược thành "亠") và chữ "lệ" 例. "Ma" 麻 biểu thị phụ âm thứ nhất "m" của phụ âm kép "ml", "lệ" 例 biểu thị phụ âm thứ hai "l" và phần vần cửa từ "mlời".
*"tlòn" 𧷺: "Tlòn" hiện nay đã biến đổi thành "tròn". Chữ này được cấu thành từ chữ "viên" 圓 (bị tỉnh lược bộ "vi" 囗 ở phía ngoài thành "員") và chữ "lôn" 侖. "Viên" 圓 có nghĩa là "tròn" được dùng làm nghĩa phù. "Lôn" 侖 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai "l" của phụ âm kép "tl" và phần vần của từ "tlòn".
*"krông" 滝: "Krông" hiện nay đã biến đổi thành "sông". Chữ này được cấu thành từ bộ "thủy" 水 và chữ "long" 竜. "Thủy" có nghĩa là "sông" biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. "Long" 竜 biểu thị phụ âm thứ hai "r" của phụ âm kép "kr" và phần vần của từ "krông".
*"sláu" 𦒹: "sláu" hiện nay đã biến đổi thành "sáu". Chữ này được cấu thành từ chữ "lão" và chữ "lục". "Lục" 六 là nghĩa phù, có nghĩa là "sáu". "Lão" 老 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai "l" của phụ âm kép "sl" và phần vần của từ "sláu".
 
===Lược bớt nét của chữ Hán để biểu thị phải đọc chệch đi===
Lược bớt ít nhất là một nét của một chữ Hán nào đó để gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này phải đọc chệch đi. Ví dụ:
*chữ "ấy" 𧘇: lược nét chấm "丶" trên đầu chữ "ý" 衣. Việc lược bớt nét bút này gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này không đọc là "y" hay "ý" (chữ 衣 có hai âm đọc là "y" và "ý") mà cần đọc chệch đi.
*"khệnh khạng" 𠀗𠀖: chữ "khệnh 𠀗 là chữ "cộng" 共 bị lược bớt nét phẩy "㇒", chữ "khạng" 𠀖 là chữ "cộng" 共 bị lược bớt nét mác "㇔".
*"khề khà" 𠀫𠀪: chữ "khề" 𠀫 là chữ "kỳ" bị lược bớt nét phẩy "㇒", chữ "khà" 𠀪 là chữ "kỳ" bị lược bớt nét mác "㇔".
 
===Mượn âm của chữ Nôm có sẵn===
Dùng chữ Nôm có sẵn để ghi lại từ tiếng Việt đồng âm hoặc cận âm nhưng khác nghĩa hoặc đồng nghĩa nhưng khác âm với chữ được mượn. Khi đọc có thể đọc giống với âm đọc của chữ được mượn hoặc đọc chệch đi. Ví dụ:
*Đọc giống với âm đọc của chữ được mượn: chữ "chín" 𠃩 ("chín" trong "chín người mười ý") được dùng để ghi từ "chín" trong "nấu chín".
*Đọc chệch âm: chữ "đá" 𥒥 ("đá" trong "hòn đá") được dùng để ghi từ "đứa" trong "đứa bé".
 
== Nhược điểm ==
Nhìn chung chữ Nôm thường có nhiều nét hơn, phức tạp hơn chữ Hán (do phần lớn là những chữ buộc phải ghép 2 chữ Hán lại) nên khó nhớ hơn cả chữ Hán vốn cũng đã khó nhớ. Cách đọc cũng có khi không thống nhất hoặc một chữ có thể có nhiều cách đọc, cách viết, nên có người nói rằng "chữ Nôm phải vừa đọc vừa đoán". Ngoài ra, việc "tam sao thất bản" là khó tránh khỏi, phần vì trình độ người thợ khắc chữ ngày xưa, phần vì khâu in mộc bản có chất lượng không cao (chữ bị nhòe, mất nét).
 
Về mặt ngữ học thì do âm trong tiếng Việt nhiều hơn số âm trong tiếng Hán (tiếng Việt có 4500 đến 4800 âm; tiếng Hán Quan thoại có khoảng 1280 âm)<ref>Hannas, Wm. C. ''Asia's orthographic dilemma''. Honolulu, HI: University of Hawaii Press, 1997. tr 88</ref> nên người viết phải dùng dấu nháy [»] hoặc chữ khẩu [口] đặt cạnh một chữ để biểu thị những chữ cận âm. Người đọc vì vậy phải giỏi mà đoán cho trúng âm, khiến chữ Nôm rất khó đọc.
 
== Chữ nôm của các dân tộc khác ==
Ở Việt Nam, không chỉ có dân tộc Kinh chế tạo ra chữ Nôm, một vài dân tộc thiểu số khác như Tày, Dao, Ngạn, v.v. cũng tạo ra chữ Nôm dựa trên chữ Hán để lưu lại ngôn ngữ của họ.<ref name="vienKHXH-dieutra">{{Chú thích web|url=http://www.vass.gov.vn/tintuc/mlnewsfolder.2006-07-14.3623756330/mlnews.2007-10-25.4744530122|title='Điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, mã hoá chữ viết cổ truyền'|author=Nguyễn Vũ|publisher=Viện Khoa học Xã hội Việt Nam|date=2007-10-25|archiveurl=http://web.archive.org/web/20080924130331/http://www.vass.gov.vn/tintuc/mlnewsfolder.2006-07-14.3623756330/mlnews.2007-10-25.4744530122|archivedate=2008-09-24}}</ref>
 
=== Chữ Nôm Tày ===
 
=== Chữ Nôm Dao ===
 
=== Chữ Nôm Ngạn ===
[[Người Ngạn]], một nhánh của [[người Giáy]] ở tỉnh [[Cao Bằng]], từng sử dụng chữ Nôm Ngạn trộn với chữ Hán trong các bài ''mo'' (khấn cúng).<ref name="Nguyễn Quang Hồng">{{Chú thích tạp chí|title=Khái lược về chữ Nôm Ngạn|author=Nguyễn Quang Hồng|work=Tạp chí Hán Nôm|year=2007|issue=6 (85)|pages=45–8|date=2009-05-19|accessdate=2013-05-24|url=http://www.hannom.org.vn/images_upload/pdf_1410.pdf|format=PDF}}</ref>
 
=== "Chữ nôm" của các nước khác ===
Do 喃 ''nôm'' = 口 ''khẩu'' + 南 ''nam'' nên chữ "喃 ''nôm''" trong tên gọi "chữ Nôm" thường được hiểu với ý nghĩa là "ngôn ngữ của người Nam". Tuy nhiên, nếu mở rộng khái niệm "chữ nôm" ra cho tất cả các hệ chữ được sáng tạo dựa trên chữ Hán thì có người còn gọi những chữ được các dân tộc phương bắc như [[Nhật Bản]], [[Triều Tiên]] là "chữ nôm Nhật", "chữ nôm Triều", hay gọi những hệ thống chữ của các dân tộc thuộc Trung Quốc<ref name="dantocTQ">Ở Trung Quốc, ngoài Tráng, Đồng, còn có nhiều dân tộc khác cũng có "chữ nôm" như Miêu, Dao, Bạch, Bố Y, Hà Nhì, v.v. Trong đó dân tộc Miêu (H'Mông) và Dao cũng thuộc gia đình các dân tộc Việt Nam.</ref> như [[người Tráng|Tráng]], Đồng, v.v. là "chữ nôm Choang", "chữ nôm Đồng", v.v.
 
* Kokuji (国字 Quốc tự) trong hệ thống [[Kanji]] của người Nhật cũng được tạo thành từ chữ Hán để ghi lại những từ và khái niệm riêng trong tiếng Nhật. Ví dụ: 畑 ''hatake'' = 火 ''hoả'' + 田 ''điền'', nghĩa là cánh đồng khô, để phân biệt với 田 là ruộng trồng lúa nước; 鮭 ''sake'' = 魚 ''ngư'' + 圭 ''khuê'', nghĩa là cá hồi Nhật Bản; 瓩 ''kiloguramu'' = 瓦 ''ngoã'' + 千 ''thiên'', nghĩa là kílô-gam. Trong hệ thống Kanji hiện đại, cũng có nhiều chữ không có trong các tự điển Trung Quốc nhưng không phải là Kokuji vì đó chỉ là cách đơn giản hoá những chữ Hán đã có sẵn theo kiểu của người Nhật. Ví dụ: 円 là giản thể của 圓 ''viên''; 売 là giản thể của 賣 ''mại''.
* Tương tự như Kokuji của người Nhật, người Triều Tiên cũng dùng chữ Hán để tạo thành một số chữ biểu ý riêng trong hệ thống [[Hanja]] của họ. Ví dụ: 畓 ''dap'' = 水 ''thuỷ'' + 田 ''điền'', nghĩa là ruộng nước, để phân biệt với 田 là đồng khô; 巭 ''bu'' = 功 ''công'' + 夫 ''phu'', nghĩa là người lao động.
* [[Tiếng Tráng|Chữ vuông Choang]] của dân tộc Tráng ở cực nam Trung Quốc được phát triển dựa trên chữ Hán và thường được so sánh với chữ Nôm của dân tộc Kinh ở Việt Nam do có nhiều điểm tương đồng giữa hai hệ thống chữ viết này<ref name="donghinhChoang">[http://hannom.org.vn/web/tchn/data/9702.htm "Hiện tượng đồng hình giữa chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang"], Tạp chí Hán Nôm, số 2-1997</ref><ref name="hinhbongNomChoang">[http://hannom.org.vn/web/tchn/data/9901v.htm#hong38 "Hình bóng chữ Nôm Việt trong chữ vuông Choang"], Tạp chí Hán Nôm, số 1-1999</ref>. Tuy nhiên, ngoài những cách tạo chữ tương tự với cách tạo chữ Nôm là ''giả tá'', ''hình-thanh'' và ''hội ý'', còn có những chữ vuông Choang được tạo ra bởi những cách sơ khai hơn là ''tượng hình'' và ''chỉ sự'' (xem [[Chữ Hán#Cách cấu tạo của Chữ Hán - Lục Thư (六書)|Lục thư]]).
 
Tuy nhiên, cũng nên phân biệt những "chữ nôm" này với những bộ chữ biểu âm như [[Kana]] và [[Hangul]] trong tiếng Nhật và tiếng Hàn hiện đại.
 
== Trên máy tính ==
Có nhiều phần mềm máy tính tạo ra ký tự chữ Nôm bằng cách gõ chữ Quốc ngữ.
* [http://viethoc.com/hannom/bango_intro.php HanNomIME] là phần mềm chạy trên [[Microsoft Windows|Windows]] hỗ trợ cả chữ Hán và chữ nôm.
* [http://herr.atspace.eu/ Vietnamese Keyboard Set] hỗ trợ gõ chữ Nôm và chữ Hán trên [[Mac OS X]].
* [http://winvnkey.sourceforge.net/ WinVNKey] là bộ gõ đa ngôn ngữ trên Windows hỗ trợ gõ chữ Hán và chữ Nôm bằng âm Quốc ngữ.
 
[[Phông chữ]] Nôm nằm trong [[cơ sở dữ liệu]] [[Unihan]]. [[VietUnicode]] là phông [[Unicode]] chứa các ký tự chữ Nôm. Nó là một dự án trên [[SourceForge]] [http://vietunicode.sourceforge.net/]. Phông [[TrueType]] có thể tải về từ [http://sourceforge.net/projects/vietunicode/].
 
Một số từ điển chữ Nôm trên mạng [[Internet]] có [http://www.viethoc.org/hannom/tdnom_intro.php Từ điển ở Viện Việt học] (tiếng Việt) [http://www.glossika.com/en/dict/viet.php Nom character index] (Tiếng Anh).
 
== Chú thích ==
{{tham khảo|2}}
 
== Tham khảo ==
* ''Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm cung cấp nguyên bản chính, và cho phép xuất bản nguyên bản này theo [[Wikipedia:Nguyên văn Giấy phép Tài liệu Tự do GNU|Giấy Phép Sử Dụng Văn Bản Tự Do GNU]] (GFDL).''
 
== Xem Thêm ==
* [[tiếng Việt]]
 
== Liên kết ngoài ==
{{UKHN|𡨸喃}}
* [http://vov.vn/xa-hoi/ra-mat-bo-tu-dien-chu-nom-lon-nhat-388560.vov Ra mắt bộ Tự điển chữ Nôm lớn nhất]
* [http://www.nomfoundation.org/vindex.html Hội Bảo tồn Di sản Nôm]
* [http://sager-pc.cs.nyu.edu/~huesoft/tracuu/vietnom.php Tiểu Tự điển chữ Nôm]
* [http://www.nomna.org/vindex.php Văn phòng Nôm Na Hà Nội]
* [https://sourceforge.net/projects/hanosoft/ Phần mềm gõ chữ Nôm]
* [http://www.chunom.org/ ChuNom.org]
* [http://www.hannom-rcv.org/ Uy ki Hán Nôm] – bách khoa toàn thư wiki của Ủy ban Phục sinh Hán Nôm Việt Nam
 
[[Thể loại:Chữ Nôm| ]]
[[Thể loại:Chữ tượng hình|Nôm]]
[[Thể loại:Tiếng Việt]]
[[Thể loại:Hệ thống viết]]


[[Category:文化]]
[[Category:文化]]